Thứ 7, 20/04/2024 04:13:53 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 14:36, 11/04/2019 GMT+7

Bách chiến bách thắng

Thứ 5, 11/04/2019 | 14:36:00 528 lượt xem

BP - Theo sách “Đại Nam chính biên liệt truyện”, Đoan Hùng quận công Nguyễn Văn Trương là người được triều Nguyễn phong “Đệ nhất ngũ hổ tướng Gia Định”, được triều đình, quân sĩ và nhân dân gọi bằng mỹ từ “Ông phúc tướng”.Ông sinh năm 1740 tại xã An Lý, huyện Lễ Dương, nay là xã Bình Phú, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Lúc nhỏ, nhà nghèo ông phải đi giữ trâu cho người khác nhưng thiên tư về quân sự bộc lộ rất sớm. Ông tập hợp trẻ chăn trâu, tổ chức thành đội ngũ, bày trận đồ, tự xưng là đại tướng, chỉ huy nhóm trẻ đánh nhau.

Lớn lên, ông vào Gia Định nhưng không rõ năm nào và vì sao ông vào Gia Định. Chỉ biết năm 1776, khi Nguyễn Lữ (một trong 3 thủ lĩnh của phong trào Tây Sơn) đem quân vào Nam, lấy được thành Sài Gòn, đuổi chúa Nguyễn Phúc Ánh chạy đến Trấn Biên (Biên Hòa), thì Nguyễn Văn Trương xin theo phò và được cho giữ chức Chưởng cơ cai quản binh thuyền. Ông được Nguyễn Lữ phân đóng giữ Long Xuyên, đã lập được nhiều chiến công, có lần ông truy đuổi Nguyễn Ánh chạy trối chết, may nhờ một cơn lốc, cây cối bị đổ, Nguyễn Ánh mới thoát được. Và nhận thấy sự chia rẽ của anh em nhà Tây Sơn, nghiệp lớn khó thành nên ông bỏ Nguyễn Lữ. Năm 1787, khi Nguyễn Ánh từ Xiêm về, ông đem 300 quân và 15 chiếc thuyền đến hàng, được Nguyễn Ánh phong làm Khâm sai chưởng cơ, cai quản đạo tiên phong doanh thủy trung quân. Sau nhờ lập nhiều chiến công được phong Khâm sai chưởng đạo tiền phong, Trung quân thủy dinh.

Tháng 8-1788, Nguyễn Văn Trương cùng Lê Văn Quân, Tôn Thất Hội, Võ Tánh, Tô Văn Đoái, Hoàng Văn Khánh, Tống Phúc Ngoạn giúp Nguyễn Ánh lấy lại thành Gia Định. Năm 1789, ông cùng Tôn Thất Hội, Võ Tánh đánh tan đạo quân của Phạm Văn Sâm ở Hố Châu (Đồng Nai) buộc Phạm Văn Sâm phải đầu hàng. Sau đó, tiêu diệt toàn bộ dư đảng của Ốc Nha Ốc ở Ba Thắc (Sóc Trăng). Năm 1792, nhân khi mùa gió Nam thổi mạnh, Nguyễn Văn Trương cùng tiền quân Nguyễn Văn Thành, Dayot và Vannier (tên Việt là Nguyễn Văn Chấn) đem chiến thuyền từ cửa Cần Giờ (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh) ra đốt phá thủy trại của Tây Sơn ở cửa Thị Nại (Quy Nhơn), rồi quay về an toàn.

Năm 1793, ông cùng Võ Tánh dẫn thủy quân, còn Nguyễn Văn Thành, Tôn Thất Hội cùng Nguyễn Huỳnh Đức đem bộ binh đánh Phan Rí (Bình Thuận). Toàn thắng quân Nguyễn tiến đánh Diên Khánh, Nha Trang và Phú Yên, sau đó tiến đánh Quy Nhơn. Tây Sơn đưa một lực lượng lớn đến cứu viện, quân Nguyễn phải rút về Diên Khánh. Năm 1794, ông cùng Nguyễn Văn Thành đánh vào cửa biển Đại Cổ Lũy (Quảng Ngãi) cướp được rất nhiều binh thuyền, lương thực của Tây Sơn. Năm 1795, ông chỉ huy tướng sĩ 3 doanh giải vây thành Diên Khánh. Năm 1797, ông theo Nguyễn Ánh đánh vào Quy Nhơn, Phú Yên, Đà Nẵng, ra đến tận cửa biển Tư Hiền (Thừa Thiên) đánh vào đồn ở núi Phú Gia. Tất cả đều toàn thắng.

Năm 1798, Nguyễn Văn Trương cùng Nguyễn Hoàng Đức đem quân sang Xiêm theo lời cầu viện của vua Xiêm để chống lại cuộc xâm lăng của người Miến Điện (Myanmar). Quân Miến thua trận phải rút chạy. Năm 1799, ông đem quân đánh Quảng Ngãi, đốt 5 sở đồn của Tây Sơn ở Sa Hoàng, Sa Kỳ, Mân Khê, Mỹ Ý, Thái Cần xong quay về hợp binh lấy lại Quy Nhơn rồi rút về đánh chiếm lại Diên Khánh. Năm 1800, đánh tan quân Tây Sơn ở Vân Phong, đèo Cù Mông của biển Đề Gi, thu được rất nhiều binh thuyền, khí giới, lương thực.

Tháng giêng năm 1801, Nguyễn Văn Trương, Tống Phước Lương, Lê Văn Duyệt, Võ Di Nguy đem quân vào đánh cửa Thị Nại. Đây là trận thủy chiến dữ dội nhất của hai phía Tây Sơn - Nguyễn Ánh. Phía Nguyễn Ánh chết 4.000 quân, trong đó có Thủy sư đô đốc Võ Di Nguy. Nhưng phía Tây Sơn thiệt hại hơn 20 ngàn quân, 1.800 chiến thuyền và 800 đại bác. Sau chiến thắng vang dội ở cửa biển Thị Nại, ông dẫn đại quân tiến ra Đà Nẵng, lấy đồn Hải Vân, chiếm cửa biển Thuận An và tiến chiếm Phú Xuân. Thừa thắng ông tiến quân ra sông Gianh chặn đường rút lui của Tây Sơn. Trong suốt cuộc chiến, ông tham gia hàng trăm trận đánh và đều giành thắng lợi.       

Lời bàn:

Là tướng tài, lập nhiều công nhưng Nguyễn Văn Trương lại rất khiêm tốn, nhân hậu và không ham danh vọng. Bằng chứng là khi làm quyền Tổng trấn Bắc Thành, ông đã tự ý mở kho phát chẩn. Vì việc này mà ông bị nhà vua quở trách. Khi làm lưu trấn Gia Định, quyền sinh sát trong tay nhưng bao giờ ông cũng châm chước công tội, thấu tình đạt lý, tâu về triều chờ lệnh chứ không tự ý quyết đoán. Năm 1803, khi triều đình nhà Nguyễn bắt đầu thời kỳ bình xét công trạng, ông lại dâng sớ xin về hưu. Khi ông mất, đích thân vua Gia Long đi đưa đám tang. Năm 1815, ông được thờ ở miếu Trung Hưng công thần. Năm 1824, ông được thờ ở Thế Miếu và năm 1835 được thờ ở Võ Miếu.

Nếu không phải là công thần bậc nhất chắc chắn Nguyễn Văn Trương đã không được đích thân vua Gia Long và các vị vua của nhà Nguyễn sau này tôn vinh đến vậy. Song, đó là chuyện của lịch sử, còn với người đương thời thì tất thảy đều kính nể và ngưỡng vọng ông ở chỗ, với quyền lực phải biết dừng đúng lúc để lưu danh sử sách. Bởi dưới thời phong kiến, những công thần trước và sau ông đã có biết bao người lâm vào cảnh “hết thú săn thì chó và cung tên cũng là đồ bỏ”.

N.D

  • Từ khóa
110170

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu