Thứ 4, 17/04/2024 03:49:01 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 14:27, 24/01/2019 GMT+7

Bằng chứng hùng hồn

Thứ 5, 24/01/2019 | 14:27:00 273 lượt xem
BP - Từ nhiều thế kỷ trước, dân tộc ta đã xác lập chủ quyền ở nhiều vùng biển rộng lớn thuộc biển Đông, trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Minh Mạng là một trong những ông vua nổi tiếng nhất của triều Nguyễn. Vì ông là vị vua trị vì quốc gia của người Việt rộng lớn nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến. Không chỉ xác lập quyền sở hữu trên đất liền, vua Minh Mạng còn đặc biệt quan tâm việc lập chủ quyền của nước ta trên biển Đông, nhất là ở 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trong hơn 20 năm trị vì đất nước, nhà vua đã xây dựng Đại Nam thành quốc gia mạnh trong khu vực. Quân đội được tổ chức rất quy củ, trong đó, thủy binh được lập thành bộ riêng với trang bị khá hiện đại vào thời bấy giờ. Theo sách “Đại Nam thực lục”, vua Minh Mạng rất quan tâm xây dựng thủy quân. Ông cải tiến, định kích thước và kiểu dáng cho từng hạng thuyền chiến, thống nhất trong phạm vi cả nước để các xưởng đóng cho chuẩn. Năm 1822, vua cho mua 1 chiếc thuyền bọc đồng của Pháp, đặt tên là Điện Dương, sau đó sai thợ đóng lại theo mẫu. Thuyền bọc đồng được phân thành 4 hạng khác nhau, hạng rất lớn, hạng lớn, hạng vừa và nhỏ. Sách “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ” cho biết, năm 1838, vua cho mua 1 chiếc tàu máy hơi nước cũ của Pháp, tháo ra nghiên cứu để lấy mẫu đóng thử. Tháng 4 năm sau, chiếc tàu máy hơi nước đầu tiên của nước ta đóng xong và chạy thử thành công. Không chỉ đóng tàu để thực hiện mục đích giao thương, vua Minh Mạng còn hướng tới trang bị cho thủy quân.

Ông từng nói với Binh bộ Thượng thư Trương Đăng Quế rằng: Trẫm muốn các ngươi trù tính kỹ càng, làm thành quyển sách thủy chiến, giao cho quân lính ngày đêm học tập, đó mới là cách phòng bị trước khi có việc. Sách sử cũng ghi lại lời ông: Bờ cõi nước ta chạy dài theo ven biển, phái quân đi tuần bể, có nhiều đường ngách, hoặc phải bỏ thuyền mà đánh trên bộ, hoặc phải dời dinh mà vây dưới nước. Như thế thời bộ binh cần phải biết cách đánh dưới nước, thủy binh cũng cần phải biết cách đánh trên bộ, cần dụ các viên thống quản ở kinh sức cho quân lính dưới quyền, cố gắng diễn tập sao cho hết thảy đều tinh, nên người quân mạnh.

Năm 1834, vua Minh Mạng cho xây dựng pháo đài phòng thủ trên một số hòn đảo trọng yếu, lệnh cho quan chức các địa phương nơi có dân cư sinh sống tại các đảo, bãi ngoài biển phải dùng tiền công quỹ đóng thuyền cho họ đi lại và cấp cả gươm giáo, súng đạn để phòng bị giặc biển. Triều đình cũng ban quy định về lệ đi tuần để đánh đuổi cướp biển, thuyền ngoại quốc có ý đồ xâm phạm hải đảo của quốc gia.

Trong sách “Đại Nam thực lục” còn ghi: Vào năm 1834, vua sai Đội trưởng Đội Hoàng Sa là Trương Phúc Sĩ dẫn 20 thủy thủ đi đo đạc, vẽ bản đồ, đo độ nông sâu, địa thế các đảo và duy trì thường xuyên. Những người không hoàn thành nhiệm vụ bị xử phạt nghiêm khắc. Tháng giêng năm 1836, các quan ở bộ Công dâng sớ tâu rằng: Cương giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất hiểm yếu, trước kia đã phái vẽ bản đồ mà hình thế nó xa rộng, mới chỉ được một nơi, cũng chưa rõ ràng. Hằng năm, triều đình nên phái người đi dò xét để thuộc đường biển. Chấp thuận ý kiến của các đại thần, vua còn căn dặn phải “ghi nói minh bạch trong họa đồ để về trình lên”. 

Ngoài hoạt động bảo vệ chủ quyền, khai thác tài nguyên biển, vua Minh Mạng còn lệnh cho thủy quân làm nhiệm vụ cứu hộ, giúp đỡ các tàu thuyền không cứ của nước ngoài gặp nạn trên vùng biển nước ta. Năm 1836, thủy quân đã cứu giúp thuyền buôn của nước Anh gặp bão tại Hoàng Sa, cứu hơn 90 người đưa vào bờ biển Bình Định cấp lương thực, nước uống, thuốc men. Hiện nay, chúng ta vẫn còn lưu giữ được rất nhiều châu bản thời Nguyễn có nội dung liên quan việc thực thi chủ quyền tại 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Và trong hơn 700 châu bản của triều Nguyễn được lưu giữ đến ngày nay, có khoảng 19 tờ châu bản thể hiện rất cụ thể việc triều Nguyễn thực thi chủ quyền trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nội dung các tờ châu bản này phản ánh quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của triều đình nhà Nguyễn trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Lời bàn:

Theo sử cũ, trong 13 vị vua triều Nguyễn nối tiếp nhau từ năm 1802-1945, Minh Mạng là vị vua thứ hai, ông trị vì từ năm 1820-1841. Ông là một nhà cải cách hành chính nổi tiếng, người có công lớn trong việc thống nhất đất nước, phân định ranh giới hành chính các địa phương một cách khoa học, hợp lý. Đặc biệt, trên lĩnh vực kế thừa giữ gìn và phát huy chủ quyền biển đảo của đất nước, vua Minh Mạng đã chủ trương thực hiện nhiều chính sách cụ thể nhằm khẳng định chủ quyền cương hải của Tổ quốc hết sức bài bản và quyết liệt. Ngoài hoạt động bảo vệ chủ quyền, khai thác tài nguyên biển, vua Minh Mạng còn lệnh cho thủy quân làm nhiệm vụ cứu hộ, giúp đỡ các tàu thuyền không cứ của các nước gặp nạn trên vùng biển nước ta.

Những điều đó cho thấy vua Minh Mạng không chỉ kế thừa mà còn phát triển chiến lược biển đảo của các triều đại trước lên một tầm cao mới, khẳng định sức mạnh quốc gia trên biển Đông, tăng cường hơn nữa vị trí và chủ quyền tại các hải đảo nói chung và 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa nói riêng. Và nhờ những công lao to lớn ấy của vua Minh Mạng mà hiện nay chúng ta có thêm nhiều bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền thiêng liêng của đất nước đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Những tư liệu lịch sử ấy còn để lại cho thế hệ hôm nay và mai sau bài học hữu ích trong công cuộc bảo vệ, giữ gìn lãnh hải của Tổ quốc.

ND

  • Từ khóa
110142

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu