Thứ 6, 26/04/2024 04:39:05 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

Thời luận 23:07, 01/06/2013 GMT+7

Chuyện về Nguyễn Tư Giản

Thứ 7, 01/06/2013 | 23:07:00 1,653 lượt xem

Theo sách “Đại Nam chính biên liệt truyện”, Nguyễn Tư Giản sinh năm Quý Mùi - 1823, trước ông có tên là Văn Phú và Địch Giản, sau mới đổi lại là Tư Giản. Ông có tên chữ tự là Tuân Thúc và Hy Bật, hiệu là Vân Lộc và Thạch Nông. Quê ông ở làng Du Lâm, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay là thôn Du Lâm, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội). Ông sinh ra trong một gia đình khoa bảng nhiều đời, nhưng gia cảnh đã đến hồi sa sút. Ông là cháu nội danh sĩ Nguyễn Án. Cha ông là Nguyễn Tri Hoàn, làm quan tới chức Lang trung bộ Hình.  

Từ nhỏ, Nguyễn Tư Giản nổi tiếng thông minh hay chữ. Lên 5 tuổi, thì mẹ mất, lên 11 tuổi thì cha mất, nên ông phải đến ở nhà ông bà ngoại. Ban đầu, ông học với người anh cả là Nguyễn Đức Hiến, sau theo học ông nghè Vũ Tông Phan, tại một ngôi trường ở thôn Tự Tháp, huyện Thọ Xương (nay là quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội). Năm 19 tuổi, ông đi thi nhưng bị hỏng, ba năm sau mới đỗ cử nhân ở trường Hà Nội, năm sau thì đỗ luôn tiến sĩ đệ nhị giáp (tức Hoàng giáp) khoa Giáp Thìn (1844) dưới triều vua Thiệu Trị. Sau khi về quê bái tạ tổ tiên, ông vào Huế để nhận chức Tu soạn Hàn lâm viện, được cử vào Ban biên tập bộ Thiệu Trị văn quy và được vua cho đổi tên Văn Phú thành Định Giản.

Năm Bính Thân - 1846, ông được cử làm Tri phủ Ninh Thuận, nhưng vào mùa Thu năm sau - 1847, vị vua mới lên ngôi là Tự Đức cho triệu ông về kinh. Trong mười năm ở kinh đô Huế (1847-1857), ông được nhà vua cho đổi tên lần nữa (từ Định Giản trở thành Tư Giản) và lần lượt trải các chức vụ: Khởi chú ở lầu Kinh Diên, Thị giảng học sĩ ở Hàn Lâm Viện, Binh khoa cấp sự trung, Quang lộc tự khanh sung Biên nội các sự vụ. Năm Đinh Tỵ (1857), Nguyễn Tư Giản được phép về thăm quê, đồng thời nhận nhiệm vụ nghiên cứu tình hình sông ngòi và đê điều ở đất Bắc. Khi trở lại, ông đề xuất “Phương lược trị thủy Nhị hà” gồm 10 điểm lên vua Tự Đức, rồi được chuyển xuống cho các bộ liên quan để cùng bàn bạc thực hiện. Vì vậy, chị đang làm Thị lang bộ Lại, ông được cử làm Hiệp chính Biện lý đê chính sự vụ để lo việc trị thủy ở Bắc kỳ. Mặc dù ông và các cộng sự có nhiều cố gắng, nhưng các năm sau vẫn có chỗ vỡ đê, khiến nhà vua không hài lòng và giáng chức ông rồi cho giải tán Nha đê chính vào năm 1862.

Nhân lúc này ở vùng biển Hải Dương, Bắc Ninh đang có cuộc nổi dậy do Tạ Văn Phụng (còn được gọi là Lê Duy Phụng) lãnh đạo, Nguyễn Tư Giản được điều làm Tham biện quân vụ Hải - Yên (Hải Dương - Quảng Yên), dưới quyền chỉ huy của Tổng thống quân vụ Trương Quốc Dụng để giúp việc đánh dẹp. Nhưng có một lần thành huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương bị quân nổi dậy kéo tới huy hiếp, ông bị đình thần hạch tội là bất lực và nhà vua đã chấp thuận cho bãi chức ông. Bị bãi chức, Nguyễn Tư Giản về dạy học ở làng Đôn Thư (Thanh Oai, thuộc tỉnh Hà Tây cũ) trong khoảng một năm, rồi chuyển ra Hà Nội dạy ở phố Hàng Bồ thêm khoảng hai năm nữa, thì được lệnh gọi vào Huế làm Tu soạn ở Viện Hàn Lâm, rồi Thị độc Học sĩ ở lầu Kinh Diên. Năm Đinh Mão (1867), nhà vua thăng Nguyễn Tư Giản làm Hồng lô tự khanh. Tháng 6 năm Mậu Thìn (1868), ông được vua chọn đi sứ sang nhà Thanh. Sứ đoàn do Lê Tuấn làm Chánh sứ, ông và Hoàng Tịnh làm Phó sứ.

Sang Trung Quốc, Nguyễn Tư Giản học hỏi được nhiều điều, nên khi về nước ông cùng với Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Đức Hậu, Bùi Viện dâng sớ lên vua Tự Đức đề nghị một chương trình canh tân tự cường, như cho mở rộng bang giao với các nước phương Tây, cử học sinh ra nước ngoài để học kỹ nghệ mới lạ... Dù không được nhà vua nghe theo, nhưng các ông được nhiều người đương thời xem trọng, coi như một “tân đảng”. Đi sứ về ông được thăng Thị lang bộ Lại kiêm Phó tổng tài Quốc sử quán. Ở chức vụ này, ông đã tham gia biên soạn và xét duyệt lần cuối bộ sử lớn của nhà Nguyễn là Việt sử thông giám cương mục. Mùa Hạ năm Quý Dậu (1873), triều đình cử một phái bộ sang Pháp để điều đình chuộc lại Nam kỳ. Nguyễn Tư Giản được cử làm Chánh sứ, nhưng ông dâng sớ lấy lý do bệnh tật sức yếu, xin thoái thác.

Lời bàn:

Cũng theo sách “Đại Nam chính biên liệt truyện”, vào hạ năm Quý Dậu  (1873), triều đình Huế cử một phái bộ sang Pháp để điều đình chuộc lại Nam kỳ. Nguyễn Tư Giản được cử làm Chánh sứ, nhưng ông dâng lấy lý do bệnh tật sức yếu, xin thoái thác. Tuy nhiên, theo lời nhận xét của sử gia đương thời Nguyễn Vĩnh Phúc, thì việc thoái thác ấy là vì ông không tán thành chủ trương giải hòa với Pháp. Bởi trước đó 14 năm, khi thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng, rồi đánh chiếm Gia Định, giữa lúc Trương Đăng Quế và Phan Thanh Giản là hai viên quan đứng đầu triều đình có chủ trương giảng hòa thì Nguyễn Tư Giản đang giữ chức Đê sứ ở Bắc kỳ đã kịch liệt phản đối và công kích chủ trương này, đồng thời dâng sớ lên nhà vua với những lời thiết tha rằng không nên hòa với Tây Dương. Điều này cho thấy Nguyễn Tư Giản là người có chính kiến rõ ràng, một lòng kiên quyết chống ngoại xâm.

Trải qua hơn 40 năm làm quan trong triều, với biết bao gian truân thử thách, mấy lần bị cách bị giáng mà chí không nản. Lòng yêu nước thương dân của ông bộc lộ rõ trong những bản điều trần, trong lời sớ thiết tha mong vua đừng nghị hòa với quân Pháp. Những điều ông nghĩ, những việc ông làm đã thể hiện rõ tấm lòng trung trinh trong sáng và liêm khiết khó ai bì. Ông quả là người mà hậu thế phải kính nể, tôn vinh vì tấm lòng cao thượng, về một bản lĩnh đáng khâm phục.

Đ.T

  • Từ khóa

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu