Thứ 6, 19/04/2024 05:10:13 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 14:32, 07/04/2019 GMT+7

“Học tài thi phận”

Chủ nhật, 07/04/2019 | 14:32:00 1,158 lượt xem
BP - Lịch sử khoa cử Nho học Việt Nam có những sĩ tử tuổi còn rất trẻ mà đạt học vị tiến sĩ vẻ vang. Tuy nhiên, cũng có trường hợp rất đáng tiếc, chỉ vì sơ suất nhỏ mà không được chấm đỗ, hoặc bị quy chụp là gian lận trong thi cử mà đánh trượt.

Kể từ khoa thi đầu tiên được tổ chức năm Ất Mão (1075) đời Lý Nhân Tông, qua các triều đại, quy chế thi cử ngày càng được xây dựng quy củ, hoàn thiện hơn. Đến đời Lê Thánh Tông, để bảo đảm sự chặt chẽ và chất lượng tuyển chọn nhân tài, tháng 4 năm Nhâm Ngọ (1462) vua đã định ra lệ “Bảo kết hương thí”.

Đây là “bản cam kết” bắt các xã phải chịu trách nhiệm về tư cách và đạo đức của sĩ tử là con em trong xã mình. Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, trước khi diễn ra kỳ thi, cụ thể vào khoảng tháng 8 của năm trước, các sĩ tử có ý định tham gia ứng thí “phải đến nhà giám hay đạo sở tại, khai tên và căn cước, đợi thi hương; nếu đỗ thì gửi danh sách đến viện Lễ nghi, tới trung tuần tháng giêng năm sau vào thi hội. Cho quan bản quản và xã trưởng xã mình làm giấy bảo kết rằng người ấy thực là có đức hạnh thì mới được kê vào sổ đi thi. Người nào vào loại bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, loạn luân, điêu toa... thì dù có học vấn, giỏi văn bài, cũng không cho vào thi”.

Quy định về lệ bảo kết được thực hiện kể từ đó cho đến tận thời Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng ở nước ta. Khoa cử thời Nguyễn thịnh nhất là vào đời vua Minh Mạng, các lề lối sơ tuyển, thi cử đều được cải cách lại, nhưng lệ bảo kết vẫn được áp dụng. Trong khoa thi hương đầu tiên của triều đại này tổ chức năm Đinh Mão (1807) đời Gia Long đã định lệ: “Trước kỳ thi, lý trưởng sở tại phải ghi tên học trò đi thi vào sổ. Những người bất hiếu, bất mục, loạn luân, điêu toa, phạm án cướp hay phản nghịch đều không được đi thi”.

Một điều rất thú vị là không có quy định cụ thể độ tuổi của các sĩ tử, vì vậy có những khoa thi có thí sinh tuổi ngoài 70, lại có những thí sinh tóc vẫn còn để chỏm. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú, trong phần Khoa mục chí chép điều lệ thi hương năm Mậu Ngọ (1678) đời Lê Hy Tông như sau: “Hoặc có người chưa đến 18 tuổi cũng cho đi thi để mở rộng đường lấy người tài giỏi, nhưng phải khai sổ đệ lên quan huyện, quan châu khảo xét”. Thực ra trước đó cũng không có việc hạn định độ tuổi sĩ tử nên có những cậu bé như Nguyễn Hiền mới 13 tuổi đỗ trạng nguyên, Đặng Ma La 14 tuổi cùng đỗ khoa thi năm Đinh Mùi (1247), Nguyễn Trung Ngạn 16 tuổi đỗ hoàng giáp khoa Giáp Thìn (1304)...

Đời vua Minh Mạng nhà Nguyễn, trong khoa thi năm Ất Mùi (1835) có một thí sinh mới 13 tuổi đã đỗ tiến sĩ nhưng không được công nhận dù không có tội lỗi gì, mà chỉ do lỗi của chức dịch địa phương. Tuy nhiên, vua Minh Mạng cho đó là hành vi gian lận trong thi cử, vì thế cậu bé thông minh kia đã bị trượt oan. Trong sách “Minh Mạng chính yếu” có chép sơ lược thông tin liên quan đến việc này như sau: Khoa Điện thí ấy có người đậu Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân tên là Lê Chân Niên, tuổi còn ít, hoàng đế ban sắc hỏi lại. Chân thưa thực: Chân mới 13 tuổi, danh sách lại ghi 19 tuổi vì trước lý trưởng khai lầm, chưa kịp cải chính. Nghe xong, hoàng đế dụ rằng:

Khoa mục là bước đầu để tiến thân, nên lấy danh thành tín làm gốc. Nếu có việc giấu tuổi như thế, trước đã tự dối mình, sau này ra làm quan trông mong gì giữ được công bình, trung chính. Vì thế trẫm không thể lấy đậu. Hãy cho theo đúng tuổi mà cải chính.Sau đó, nhà vua đã hạ lệnh cho bộ Lễ truyền dụ: Từ nay về sau, họ tên, tuổi, quê quán của những người ứng thí, phải được kê khai xác thực. Nếu người nào đã bị lý trưởng khai lầm, phải nhận quyển về, bẩm rõ với quan trên để xin cải chính. Nếu cứ bưng bít, im lặng, đến khi biết sẽ có tội. Cũng từ đó, sử sách không có dòng nào nhắc đến cậu bé Lê Chân Niên nữa. Đáng tiếc là vua Minh Mạng quá nghiêm khắc, khắt khe, dẫn đến việc một nhân tài bị bỏ qua, không có điều kiện được phát huy trí tuệ tốt hơn.

Lời bàn:

Dưới thời phong kiến, khoa cử là một trong những hình thức cơ bản để tuyển dụng nhân tài, phục vụ đất nước. Theo sử cũ thì các kỳ thi Nho học ở Việt Nam bắt đầu có từ năm 1075 dưới triều Lý Nhân Tông và chấm dứt vào năm 1919 đời vua Khải Định. Trong 845 năm đó, đã có nhiều loại khoa thi khác nhau, ở mỗi triều đại lại có những đặc điểm khác nhau. Điều mà ai cũng biết đó là quy chế thi cử thời xưa thường hết sức nghiêm ngặt, nên con đường cử nghiệp không phải là con đường bằng phẳng đối với không ít nho sinh. Thậm chí không ít người có tài năng thực sự nhưng chỉ vì phạm húy (không kiêng tên của hoàng tộc) cũng bị đánh trượt. Chính cái quy chế khắc nghiệt ấy đã làm cho không ít người có tài năng nhưng không được công nhận xứng đáng. Bởi thế, trong dân gian ngày ấy mới có câu “học tài thi phận” là vậy.

Tiếc rằng ngày nay có không ít người học hành chểnh mảng, bữa học, bữa không nhưng khi đi thi bị trượt thì lại đổ lỗi rằng mình không may mắn, vì “học tài thi phận”. Câu nói này có thể đúng với thời xưa, còn ngày nay không ai tin điều đó, ngoại trừ ai đó gặp sự cố bất khả kháng vào đúng ngày thi. Với những ai học hành tử tế sẽ cảm thấy khó chịu với cách bao biện “học tài thi phận” đó, vì như thế, chẳng khác nào đánh đồng người có kết quả thi cao cũng như thấp. Tuy nhiên, thời nào cũng vậy, người ta chỉ có thể bác bỏ hoàn toàn quan điểm “học tài thi phận” khi có một kỳ thi công bằng, sòng phẳng với tất cả.

N.D

  • Từ khóa
110168

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu