Thứ 6, 19/04/2024 10:51:26 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 15:26, 30/11/2017 GMT+7

Hồng nhan bạc phận

Thứ 5, 30/11/2017 | 15:26:00 468 lượt xem

BP - Theo sách “Đại Việt sử lược”, bà Trịnh Thị Tuyên là vợ của Kiến vương Lê Tân và là mẹ của vua Lê Tương Dực. Khi Lê Uy Mục ở ngôi bạo phát, bạo tàn, thân quyến hoàng tộc cũng bị bức hại, bà Trịnh Thị Tuyên cùng các con bị bắt giam. Không lâu sau, con trai thứ của bà là Lê Oánh thoát khỏi ngục trốn về Thanh Hóa khởi binh. Lê Uy Mục tức giận giết hết các con của bà, lại tra tấn bà rất tàn nhẫn, bắt phải viết thư yêu cầu Lê Oánh bãi binh về quy hàng.

Tuy nhiên, bà không làm theo mà còn mắng chửi Lê Uy Mục là hôn quân bạo chúa nên bị giết khi vừa tròn 38 tuổi. Về sau, Lê Oánh đau xót đã cho mai táng rất trọng thể, truy tôn mẹ là Trịnh Thị Huy Từ Trang Huệ Kiến hoàng thái hậu và xây lăng, an táng tại làng Mỹ Xá, xã Mỹ Đại, huyện Ngự Thiên, trấn Sơn Nam (nay thuộc thị trấn Hưng Nhân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).

Minh họa: S.H

Lê Uy Mục bị giết, những người vợ của ông cũng không thoát được kiếp nạn chung, trong đó có bà phi Lê Thị Thanh, người xã Sa Lung, châu Minh Linh (nay là xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Nhân lúc hỗn loạn, Lê phi thoát ra khỏi cung nhưng vì nghe tiếng về sắc đẹp của bà, Lê Tương Dực sai người đi lùng bắt, ép trở lại hoàng cung để thỏa mãn sắc dục. Không rõ số phận bà phi họ Lê kết cục ra sao, chỉ biết sau khi bà mất, thi hài được đưa về chôn tại quê hương, người dân đã lập miếu thờ gọi là miếu Bà chúa Râm.

Tháng 4-1516, sau cuộc chính biến cung đình, Lê Tương Dực bị giết, con của hoàng thân Cẩm Giang vương Lê Sùng là Lê Y (gọi Lê Tương Dực là chú ruột) được lập làm hoàng đế (tức  Lê Chiêu Tông). Thân mẫu vua là Trịnh Thị Loan được tôn làm hoàng thái hậu. Bấy giờ, phe cánh của quyền thần Mạc Đăng Dung ngày càng lớn, lấn át cả vua khiến Lê Chiêu Tông sợ hãi chạy khỏi Thăng Long tháng 7-1522, kêu gọi quân các trấn về đánh quyền thần. Mạc Đăng Dung liền đưa em của vua là Lê Xuân lên ngôi, tức Lê Cung Hoàng. Đến tháng 8-1523, Mạc Đăng Dung lấy danh nghĩa vua mới ban chiếu truất Lê Chiêu Tông xuống tước vương, sau đó cho quân tấn công; ngày 28-10-1525, bắt được Lê Chiêu Tông đưa về giam ở phường Đông Hà.

Đến ngày 18-12-1526, Mạc Đăng Dung bí mật sai người giết Lê Chiêu Tông và đến ngày 11-6-1527, dẫn quân về kinh ép Lê Cung Hoàng phải nhường ngôi, phế xuống làm Cung vương đem giam ở cung Tây Nội cùng thái hậu, có khi mấy ngày không cho ăn, thái hậu Trịnh Thị Loan đói quá phải xé áo mà nhai.

Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”: Giáng phong vua làm Cung vương rồi giam cùng với hoàng thái hậu ở cung Tây Nội. Vài tháng sau, bắt phải tự tử. Thái hậu khấn trời rằng: Đăng Dung là kẻ bề tôi, manh tâm cướp ngôi, lại giết mẹ con ta, ngày sau con cháu nó cũng lại bị như thế, rồi cùng với Cung đế đều bị chết. Đăng Dung sai đem xác hai người để phơi ngoài quán Bắc Sứ, rồi đưa về chôn ở lăng Hoa Dương, huyện Ngự Thiên theo nghi lễ của thiên tử và hoàng hậu.

Khi đó, bà Phạm Ngọc Quỳnh, vợ Lê Chiêu Tông, lúc biến loạn ở cung đình cùng con trai là Lê Duy Ninh (vua Lê Trang Tông sau này) chạy về ở ấp Mỹ Xá (nay thuộc xã Phú Sơn, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Mạc Đăng Dung sai quân đến bắt, bà bế con nấp trong bụi cây lớn ven dinh thự. Quân lính thấy bụi cây bị lướt cành gãy lá nghi là có người liền dùng giáo đâm vào, bà cắn răng chịu đau, lấy thân mình che chở cho con. Lính thấy giáo có máu định phóng hỏa đốt, may thay có con chồn từ bụi cây chạy ra, quân lính liền bỏ đi. Bị thương, mất nhiều máu nhưng bà Ngọc Quỳnh vẫn gắng gượng bế con trốn đi trong đêm, lần hồi về Thanh Hóa ở ẩn rồi suy kiệt mà mất khi hoàng tử lên 14-15 tuổi. Sau này, Lê Duy Ninh lên ngôi đã truy phong mẹ là hoàng thái hậu.

Hai người phụ nữ và cũng là những mỹ nhân cuối cùng của thời Lê sơ được sử sách nhắc đến là Quý phi Nguyễn và Quý phi Đào thị. Khi Lê Cung Hoàng bị Mạc Đăng Dung bắt giam, bà Đào thị đã tự vẫn để giữ lòng trung với vua, còn Nguyễn thị cũng nhịn ăn rồi chết.

Lời bàn:

Trong tác phẩm “Truyện Kiều”, đại thi hào Nguyễn Du đã viết: “Đau đớn thay phận đàn bà; Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Chữ “phận” ở đây là thân phận, số phận của con người, mà cụ thể là người phụ nữ dưới thời phong kiến. Còn cụm từ “bạc mệnh” hay mệnh bạc là số phận, số mệnh tiền định mỏng manh, đen tối, trải qua nhiều đau thương bất hạnh và đó là số phận đáng thương của hầu hết người phụ nữ trong xã hội cũ. Hai câu thơ trên, Nguyễn Du đã nói lên bi kịch về thân phận của người phụ nữ ngày xưa, đó là: Đau khổ, bạc mệnh hay “phận đàn bà” trong xã hội ấy là “đau đớn”, là “bạc mệnh”, tủi nhục.

 Nguyên nhân là vì đạo “tam tòng” như sợi dây oan nghiệt thít chặt vào cổ người đàn bà (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Và thời ấy, những thiếu nữ có nhan sắc và tài hoa thì cũng chỉ để “mua vui” cho bọn vua chúa, quan lại, kẻ quyền quý... Vậy nên từ giai thoại đã nêu cho thấy, cuộc đời và số phận của các bà hoàng cuối thời Lê sơ phần lớn đều có một kết cục buồn. Vì vậy nên người xưa mới có câu rằng: Hồng nhan bạc phận. Đó là chuyện của ngày xưa, còn thời nay câu nói này đã được người đời sau sửa lại rằng: Hồng nhan bạc tỷ. Vì hầu hết những người đẹp sau các cuộc thi nhan sắc đều trở thành tỷ phú nhờ các đại gia thừa tiền. Thật đáng buồn thay.

N.D

  • Từ khóa
109989

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu