Thứ 6, 26/04/2024 06:46:58 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 13:43, 30/10/2018 GMT+7

Không sợ quyền uy

Thứ 3, 30/10/2018 | 13:43:00 698 lượt xem
BP - Theo sách “Lịch triều hiến chương loại chí”, Trịnh Sâm chào đời vào ngày 9-2-1739, dưới triều Lê Ý Tông. Khi đó, cha ông là Trịnh Doanh còn chưa lên ngôi chúa nhưng đã được Trịnh Giang phong làm Thái úy, Tiết chế quân thủy, quân bộ các xứ. Sau cuộc đảo chính năm 1740, Trịnh Doanh lên ngôi thay anh. Trịnh Doanh tỏ ra cẩn trọng việc nuôi dạy con, bổ dụng 2 tiến sĩ làm tư giảng cho Trịnh Sâm.

Cuối năm 1753, theo đề nghị từ quần thần, Trịnh Doanh chính thức sách lập Trịnh Sâm làm thế tử, bổ dụng Tham tụng Nguyễn Công Thái giữ chức Sư phó để dạy Trịnh Sâm. Năm 1758, Trịnh Sâm được phong làm Tiết chế thủy bộ chư quân, chức Thái úy, tước Tĩnh quốc công, mở phủ Lượng quốc, quyết định công việc nhà nước. Tư giảng Nguyễn Hoàn dâng 10 bài châm, gồm: Bụng nghĩ phải ngay thẳng; Học hỏi phải rộng khắp; Tề chỉnh việc chính trị trong nước; Phòng ngừa việc đối với người thân cận; Thống nhất căn bản chính sự; Cẩn thận việc sai phái, cất nhắc; Mở rộng việc thu nhận những lời khuyên can; Giữ phép tắc đã sẵn có; Hiệu lệnh phải cho tin thực; Việc nào đáng rộng rãi hay nghiêm ngặt, nên xét kỹ và tất cả Trịnh Sâm đều tiếp nhận

Từ sau năm 1775, Trịnh Sâm ngày càng sa vào tửu sắc, chính trị suy bại, cuộc sống người dân trở nên cơ cực. Ông sủng ái Tuyên phi Đặng Thị Huệ và Quận huy Hoàng Đình Bảo. Đến năm 1780, thế tử Trịnh Tông nổi loạn nên bị phế truất, con của Tuyên phi Đặng Thị Huệ là Trịnh Cán mới 4 tuổi được lập làm thế tử. Trịnh Sâm sau đó cũng mắc bệnh và qua đời. Họ Trịnh lúc này ngày càng lún sâu vào con đường suy sụp.

Theo sử cũ còn lưu lại đến ngày nay, dưới triều Lê có vị quan xử án công minh, sẵn sàng kết tội cả tay chân của Tuyên phi Đặng Thị Huệ. Đó là ông Nguyễn Bá Dương, người làng Nguyên Xá, huyện Thần Khê, trấn Sơn Nam hạ, nay là huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Vì có tính hay uống rượu, lúc học trọ ở Thăng Long, ông mang nợ nhiều đến mức bị người đàn bà bán rượu đón đường đòi nợ. May cho ông là có cô gái làng Mơ trả hộ nên mới được yên thân. Từ đó, ông tu chí học hành nhưng nhà nghèo, không có giấy bút phải viết văn lên cả trên mặt bàn.

Năm 1766, ông về quê tham gia kỳ thi hương. Qua các kỳ thi hạch ở huyện và ở trấn, ông nức tiếng là người hay chữ. Khoa ấy ông thi đỗ hương tiến, năm sau lại đỗ tiến sĩ cùng 10 người khác, lúc đó mới 18 tuổi. Ông được khắc tên vào bia tiến sĩ với chú thích “thiếu tuấn”, tức thi đỗ lúc còn trẻ, dưới 20 tuổi.Sau khi thi đỗ, ông lên kinh đô xin cưới cô gái làng Mơ làm vợ chính. Có bà phu nhân muốn gả cháu gái, ông cũng chỉ cưới làm vợ thứ. Việc lựa chọn của ông khiến người dân ở kinh đô nức nở ngợi khen là người thẳng tính.

Khi giữ việc hình án ở Ái Châu (Thanh Hóa ngày nay), có viên án trấn cậy thế bà chính cung của chúa Trịnh là Tuyên phi Đặng Thị Huệ nên làm càn ăn của đút lót, ông đã ra lệnh bắt trói, yêu cầu bồi hoàn, nếu không sẽ đánh trượng cho chết. Viên án trấn phải nộp 400 lạng vàng đã nhận. Ông nhốt hắn vào ngục, đưa xe về kinh, đem theo cả vàng lễ ấy dâng nộp. Khi tờ khai trình đến chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm, Đặng phi nghe tin về việc tay chân của mình bị kết tội đã khóc kêu. Chúa Trịnh Sâm nói: Số vàng tang vật hiện đủ đây, còn kêu oan gì nữa. Lúc bấy giờ, Tuyên phi Đặng Thị Huệ nhờ có sắc đẹp nên được Chúa Trịnh Sâm mê đắm và sủng ái. Ấy thế mà trước sự cương trực của Nguyễn Bá Dương, chúa Trịnh cũng phải phục. Nghe lời phán, Tuyên phi đành hổ thẹn không dám nói mà lặng lẽ lui. Tên án trấn đành phải chịu tội.

Trong sách “Tang thương ngẫu lục” của 2 tác giả Phạm Đình Hồ và Nguyễn Án, hoàn thành vào những năm đầu thời vua Gia Long triều Nguyễn, kể rằng: Người châu Ái đến nay hãy còn khen và nhắc đến chuyện ấy. Sau đó, Nguyễn Bá Dương được lưu lại kinh đô Thăng Long bổ dụng làm quan, lần lượt trải qua các chức Hàn lâm viện đãi chế, Tế tửu Quốc tử giám. Tương truyền, dù làm quan to nhưng ông không vì thế mà tư lợi, bởi thế rất được chúa Trịnh Sâm cũng như triều đình nể vì, trọng dụng. Ông mất năm 1785, khi mới 46 tuổi.

Lời bàn:

Theo “Từ điển Lịch sử nhân vật Việt Nam”, tuyên phi Đặng Thị Huệ được miêu tả là người phụ nữ đầy cá tính với vẻ ngoài xinh đẹp, tư chất thông minh và khát khao quyền lực thay đổi định mệnh. Đồng thời, đây cũng là người đàn bà đã gây ra nhiều tai ách trong phủ chúa Trịnh và triều đình nhà Hậu Lê, ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình chính trị - xã hội đàng Ngoài. Cuộc đời bà trở thành đề tài của nhiều giai thoại, chủ yếu nói về nhan sắc tuyệt đẹp của bà đã làm ảnh hưởng đến chúa Trịnh Sâm. Bà đã dùng nhiều thủ đoạn chính trị và gây nên nạn kiêu binh làm sụp đổ chính quyền Lê - Trịnh. Cũng may là thời ấy trong triều còn có vị quan thanh liêm và không chịu khuất phục bởi uy quyền là Nguyễn Bá Dương.

Tuy nhiên, cả triều đình mà chỉ có một mình Nguyễn Bá Dương cũng khó mà xoay chuyển tình thế. Hơn nữa, xưa nay anh hùng khó qua ải mỹ nhân, huống chi Trịnh Sâm tài cán chỉ có hạn lại ở thời mạt vận và sống buông tuồng háo sắc dục nên trở thành bù nhìn trước Đặng Thị Huệ thì âu cũng là điều dễ hiểu. Vẫn biết sức vóc con người chỉ có hạn, chẳng thể nào ban phát ái tình cho hết các cung tần, nhưng lòng tham của vua chúa thì vô đáy. Vậy nên cơ nghiệp nhà Trịnh mới bị sụp đổ vì một người đàn bà. Thế mới hay rằng, sống ở trên đời ai mà biết thế nào là đủ, bao nhiêu là vừa thì đó mới đích thực là bậc trượng phu.

ND

  • Từ khóa
110110

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu