Thứ 7, 20/04/2024 08:50:30 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 08:21, 01/03/2015 GMT+7

Lưỡng quốc Khôi nguyên

Chủ nhật, 01/03/2015 | 08:21:00 814 lượt xem
BP - Nhà ngoại giao tài ba lại giỏi thơ văn và đối đáp thông minh, Nguyễn Đăng Cảo được vua nhà Minh phong là “Lưỡng quốc Khôi nguyên”. Ở trong nước, sau khi qua đời, ông được phong là “Phúc thần” và hiện còn đền thờ ông tại thôn Hoài Bão, xã Liên Bão, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Nguyễn Đăng Cảo còn có tên gọi là Đăng Hạo, người xã Hoài Bão, huyện Tiên Du (nay là thôn Hoài Bão, xã Liên Bão, huyện Tiên Du), tỉnh Bắc Ninh. Ông là anh của Nguyễn Đăng Minh (tiến sĩ khoa Bính Tuất - 1646), là bác ruột của Nguyễn Đăng Tuân (tiến sĩ khoa Quý Sửu 1673) và Nguyễn Đăng Đạo (Trạng nguyên khoa Quý Hợi - 1683). Năm 28 tuổi, ông đi thi và đỗ Hội nguyên, Đình nguyên, Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ tam danh (Thám hoa) khoa Bính Tuất, niên hiệu Phúc Thái 4 (1646), đời vua Lê Chân Tông. Cùng khoa thi này, em ruột ông là Nguyễn Đăng Minh cũng đỗ tiến sĩ. Sau đó, ông lại đỗ đầu khoa Đông các, được bổ chức Đông các đại học sĩ năm 1659.

Trong cuốn “Bắc Ninh địa chí” của Đỗ Trọng Vĩ có đoạn ghi chép về ông như sau: Nguyễn Đăng Cảo hồi trẻ có tài lạ, truyện đọc một lần là nhớ, người đương thời gọi là thần đồng. Khi đi thi Hương, thi Hội, thi Đình, thi Đông các, ông đều đỗ đầu. Khi được triều đình cử đi sứ sang nhà Thanh, ông đã thể hiện rõ tài năng của mình, được vua Thanh khen ngợi và được phê tặng danh hiệu “Lưỡng quốc Khôi nguyên”.

Chuyện xảy ra vào năm Kỷ Mùi, triều Phúc Thái, ông hộ tống đoàn đi sứ nhà Thanh đến Lạng Sơn, khi ấy sứ nhà Thanh ra đối rằng: Điểu nhập phong, thực tận trùng nhi hóa phượng. Vế đối này có nghĩa là chim vào gió ăn hết sâu mà hóa phượng. Cái khó ở vế đối này là chữ Phượng gồm chữ Điểu viết trong chữ Phong. Ngay sau đó, ông đã đáp lại rằng: Nhân cư nhân trắc, đả phi thạch dĩ thạch tiên. Có nghĩa là người ở cạnh núi, đẽo đá để thành tiên. Cái tài ở vế đối này là chữ Nhân đứng bên cạnh chữ Nham bỏ chữ Thạch, thành chữ Tiên.

Lúc đến cửa ải cũng là lúc mà trời mưa dầm đã được hơn một tuần, nhưng hôm ấy bỗng nhiên trời hửng nắng, sứ phương Bắc đem sách ra phơi, ông cũng kê ghế rồi trải chiếu nằm phơi bụng ra giữa thanh thiên bạch nhật. Sứ nhà Thanh thấy vậy liền hỏi rằng: Sao ông lại làm như vậy? Ông liền đáp lại: Sứ thần thượng quốc phơi sách, tôi phơi bụng. Sứ nhà Thanh Ghe vậy liền thử tài và nói: Sách Đại học bản chính bị đốt mất rồi, phiền ngài viết lại cho. Ông viết lại từ chính văn đến chú giải lớn, nhỏ như bản gốc, sứ nhà Thanh kinh ngạc nói rằng: Năm trước, quan Thái sư (Trung Hoa) tâu vua rằng: Sao Văn Khúc giáng ở An Nam, quả đúng như vậy.

Tiếng đồn đến vua nhà Thanh, vua Thanh thử tài và bảo ông làm bài phú giải thích cho chư hầu về việc róc tóc. Ông làm xong ngay và đệ trình. Vua nhà Thanh hết lời khen ngợi và phê rằng: Lời gọn, ý tận và sâu sắc, rồi phong cho ông là Khôi nguyên Bắc Triều, như vậy ông là “Lưỡng quốc Khôi nguyên”. Về sau, nhà Thanh lại đưa thư bắt nước ta nộp giường bằng đồng một cái, 100 ông già đầu bạc, 100 người con gái tóc dài. Tiếp thư của sứ nhà Thanh, các quan trong triều không biết xử trí ra sao và khi hỏi thì ông nói: Bắc Triều loạn đã lâu, chi dùng không đủ nên đòi ta thứ ấy. Nay cho tôi xin 100 gốc lúa, 100 thúng muối, 100 con dê cái để nộp.

Người nhà Thanh thấy vậy kính phục. Họ lại đưa mười vuông gấm, đòi ta may thành các loại áo xiêm, khăn, chăn, màn. Các quan không biết làm thế nào. Khi được hỏi thì ông nói rằng: Cứ cho ông may một áo cổ dài, ống tay to và một cái quạt trong đề mấy câu rằng: Mặc trên là áo, trang điểm ở dưới là xiêm, có dòng là khăn, có ống là túi, khoanh đầu là mũ (miện), buông xuống có thể là màn, che mình là chăn, trải giường là nệm. Tất cả cùng với tờ biểu đưa nộp cho họ.

Người nhà Thanh đọc tờ biểu xong bấy giờ mới tỏ rõ thái độ kính phục ông và than rằng: Nước Nam địa linh nhân kiệt đời nào cũng có, nhưng vượt trội hơn cả từ nay về sau chỉ có một Đăng Cảo.  

Lời bàn:

Từ xưa, việc đi sứ của sứ thần nước ta sang Trung Quốc dù trong thời bình hay cuộc chiến đều là sự đấu tranh gay go trên mặt trận ngoại giao. Các sứ thần nước ta trong bất kỳ tình huống nào, trước sự áp chế, thử thách của nước lớn phương Bắc cũng phải rất mực thông minh mưu trí, ứng đối mau lẹ giữ vững tiết sứ thần của một nước Đại Việt có truyền thống văn hiến, có độc lập chủ quyền, có cương vực riêng...Nguyễn Đăng Cảo đã đạt được phong độ của một vị sứ thần mẫu mực. Ông đã biết kết hợp giữa cương với nhu và bằng học vấn uyên thâm, trí thức thông tuệ, ông đã không những bảo vệ được quốc thể mà còn làm cho quốc thể thêm long trọng nhờ tài năng siêu việt của mình.

Nguyễn Đăng Cảo xứng đáng là tấm gương ngoại giao đại tài của đất nước thời Lê Trung hưng. Vì với tài năng của mình, Nguyễn Đăng Cảo đã làm kinh ngạc cả triều đình nhà Thanh cùng sứ thần các nước. Quan trọng hơn là chính ông đã buộc vua nhà Thanh phải thừa nhận tài năng của mình bằng việc phong ông là “Lưỡng quốc Khôi nguyên”. Và điều này cũng có nghĩa là hoàng đế nhà Thanh đã phải thừa nhận trí tuệ của người Đại Việt ngang hàng với “Thiên triều”.      

N.V

  • Từ khóa
109635

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu