Thứ 6, 29/03/2024 15:23:12 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 13:26, 18/11/2016 GMT+7

Người xưa đi sứ

Thứ 6, 18/11/2016 | 13:26:00 752 lượt xem
BP - Theo sách “Đại Nam liệt truyện” thì Hà Văn Quan, tự là Tử Thạch, sinh ngày 4 tháng 8 năm Đinh Hợi, tại làng Vành Tuy, tổng Long Đại, huyện Phong Lộc, nay thuộc xã Vĩnh Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Tằng tổ là Thuyết làm Kỵ úy nhà Lê. Tổ ba đời là Thước làm nội thị buổi quốc sơ, tức là buổi đầu lập nước, có nghĩa là vào thời chúa Nguyễn cát cứ ở Thuận - Quảng.

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống hay chữ, Hà Văn Quan đi học từ khi 6 tuổi. Vừa thông minh lại rất chăm chỉ, ham học nên ông có tiếng hay chữ từ khi còn nhỏ. Lớn lên ông thích nói lời hay, làm việc tốt, cư xử ôn hòa, kính người trên, trọng người dưới. Lúc đầu, ông học với thầy tú tài Nguyễn Đình Dung tại làng Phú Nhuận, sau thầy tú Dụng được bổ đi làm giám thị ở tỉnh, gia đình cho Hà Văn Quan đi theo thầy, tiếp tục học tập. Năm Thiệu Trị thứ 7, Hà Văn Quan đỗ tú tài. Năm Tự Đức thứ 8, ông đậu cử nhân khoa Ất Mão. Đến năm Tự Đức thứ 18, ông thi hội, đỗ Phó bảng khoa Ất Sửu - 1865. Sau đó, ông được bổ làm tri huyện Gia Lộc rồi chuyển đi huyện Bình Giang. Quan tỉnh thấy Hà Văn Quan làm việc chăm lo đến dân tình, tính tình điềm đạm biết thương dân, tâu lên triều đình, ông được thăng lên Thị Độc, lĩnh Hà Tĩnh quản đạo. Năm Tự Đức thứ 26, ông được gia thưởng hàm Thị Giảng học sĩ và sung làm Phó sự sang Yên Kinh.

Khi đi sứ Trung Quốc về, ông đem theo 12 đài sách của nhà Thanh mà trong quá trình đi sứ ông đã chọn đọc, dâng lên nhà vua để mong cho in ra phổ biến. Vua Tự Đức đã nói với cả triều đình rằng: Cả thiên hạ có 4 bồ chữ, riêng trẫm có 2 bồ chữ, thiên hạ 1 bồ, Hà Văn Quan 1 bồ. Câu nói này thể hiện việc Hà Văn Quan vốn là một người ham đọc sách, đi đâu cũng tìm sách hay để đọc, để chép. Việc ông dâng sách lên vua, có lẽ ông cũng biết rõ vua Tự Đức là người yêu sách, ham sách như ông.

Sau khi đi sứ về, ông được thăng Hồng Lô Tự Khanh, biện lý Bộ Binh. Năm 1875 vua bảo: Văn Quan bổ làm quan ngoài chưa lâu, chuẩn cho đổi bổ đi Án Sát Ninh Bình cho được thêm thông thạo. Nhưng ông làm sớ tâu xin lưu lại kinh để học tập chính thể. Năm Tự Đức thứ 31 ông được cất lên Binh bộ Hữu Thị Lang sung chủ khảo trường Nam Định, rồi thăng lên quyền tham tri. Hà Văn Quan dâng sớ tâu bày về binh chính, xin dồn lập đội ngũ, huấn luyện binh sĩ, liệu thêm lương thảo và rèn đúc súng ống để phòng khi dùng đến. Lại thấy đường biển nhiều khi bị nghẽn, xin vua chọn thủy binh, lập đạo quân tuần tiễu.

Các việc do Hà Văn Quan tâu xin đều được vua giao xuống quan coi việc xem xét bàn định thi hành. Khi vua Tự Đức mất, vua Kiến Phước mới lên ngôi phái ông ra Hải An làm Tổng đốc. Bấy giờ tình hình biên giới rối loạn, bọn Hán gian người Thanh xúi giục dân tình nổi loạn, đường sá giao thông nghẽn trở. Ông tự đi một mình đến vỗ về nhân dân, toàn hạt được yên, có chiếu chỉ của vua khen ngợi. Nhưng, người Pháp ngờ ông thông đồng với quân phiến loạn nhà Thanh bèn bắt ông đem về Gia Định, mang yên trí ở Côn Lôn hơn một năm.

Năm đầu Đồng Khánh (1886), người Pháp thả ông, từ Gia Định ông trở về kinh, được bổ làm Thị Lang, lĩnh Tham Tri Công bộ kiêm quản lý Đô Sát Viện. Ông dâng sớ từ chối, nhưng nhà vua vẫn bắt ông nhận chức vụ trông nom công việc xây dựng điện Cần Chánh. Khi ông được người Pháp trao trả trở về kinh, trong tờ biểu tạ ơn vua, ông có viết: Khi đem tấm thân hiếu nước, đã định lấy cái chết đền đáp, ngày đến chốn hoang vu muôn dặm, không ngờ được sống quay về... và “... con chim trong lồng lại được thấy tháng ngày xanh mà bay liệng; con ngựa hèn trong chuồng lại được đem thử roi, thúc trên con đường yên vui...” Tháng giêng năm 1888, Hà Văn Quan giữ chức Cơ mật viện đại thần, rồi mất khi 62 tuổi và vẫn còn tại chức.

Lời bàn:

Từ khi Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 sứ quân và thống nhất đất nước rồi lên ngôi hoàng đế năm 968, đánh dấu lần đầu tiên sau thời kỳ Bắc thuộc, người Việt có được một quốc gia độc lập, một nhà nước phong kiến tập quyền riêng và quân đội riêng. Và kể từ đó đến nay, đất nước đã có hàng vạn, thậm chí hàng chục vạn lượt người đi sứ. Thế nhưng không có được mấy ai mang sách, tức là mang tri thức, nghề của người nước ngoài về truyền dạy cho người trong nước như Hà Văn Quan; hoặc như Lê Công Hành, khi đi sứ đã học được nghề thêu đem về nước dạy cho dân làng Quất Động rồi sau đó phát triển rộng ra các tỉnh khác, sang cả Bắc Ninh, Hưng Yên; hay như Phùng Khắc Khoan mang giống ngô và nghề dệt the về nước... và thời nhà Nguyễn có Phó sứ Phạm Phú Thứ đã học hỏi người dân Ai Cập cách lấy nước tưới ruộng bằng xe trâu và đã phổ biến ở miền Trung khi ông về nước, mọi người đều làm theo vì thấy rất có lợi so với dùng sức người.

Tiếc rằng hậu thế thời nay không mấy ai học và làm được như tiền nhân. Vì thời nay, mỗi khi được đi nước ngoài vì công vụ hay du lịch, hoặc học tập... người ta chỉ biết lo hưởng thụ đặc sản hay thưởng ngoạn phong cảnh xứ người, chứ có mấy ai lo cho sự phát triển của quê hương đất nước. Bởi thế cho nên mới có không ít cậu ấm, cô chiêu là con cháu của ông này, bà kia cũng mang tiếng là đi du học, rồi cũng có bằng thạc sĩ, tiến sĩ theo kiểu học phần mà không có thực tiễn nên cũng chẳng ích gì cho đời. Thế mới hay, thời nào cũng vậy, chỉ những người có ý chí, có tâm huyết với quê hương, đất nước... thì mới thực sự hữu ích cho đời và được muôn đời kính trọng.

N.D

  • Từ khóa
109860

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu