Thứ 5, 28/03/2024 22:20:08 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

Pháp luật 13:49, 06/10/2014 GMT+7

Những điểm mới trong Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 - Bài 2

Thứ 2, 06/10/2014 | 13:49:00 3,676 lượt xem
BPO - Luật Hôn nhân và Gia đình được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 19-6-2014. Luật này chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2015 và thay thế cho Luật Hôn nhân và Gia đình 2000. So với Luật 2000 thì Luật 2014 có những điểm mới và dưới đây xin giới thiệu cùng bạn đọc và những điểm mới này:

>> Những điểm mới trong Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 - Bài 1

* Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng:

Về quyền lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng được quy định tại Điều 20 và được sửa đổi, bổ sung thêm cụm từ “thỏa thuận” trong việc lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng. Về quyền tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng được quy định tại Điều 21. Theo đó, ở điều này đã bỏ quy định “Cấm vợ, chồng có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau”, bởi khoản 1 đã bao hàm nội dung này.

Luật HN&GĐ được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 19-6-2014 có nhiều điểm mới so với Luật HN&GĐ năm 2000 (Ảnh minh họa) - Thúy Ngọc

Về tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng. Theo đó, Điều 22 đã bỏ nội dung “không được cưỡng ép, cản trở nhau theo hoặc không theo một tôn giáo nào” bởi quy định “Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau” đã bao hàm nội dung trên.

Về quyền, nghĩa vụ về học tập, làm việc, tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội được quy định tại Điều 23 và được chỉnh sửa lại như sau: “Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ tạo điều kiện, giúp đỡ nhau chọn nghề nghiệp; học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”.

* Xác lập đại diện giữa vợ và chồng:

Căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng được quy định tại Điều 24. Về cơ bản nội dung được giữ nguyên nhưng thay đổi về cách trình bày câu chữ, ví dụ thêm nội dung mới “…xác định theo quy định của luật này, Bộ luật Dân sự và các luật khác có liên quan”.

Về đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh. Đây là điều luật mới - Điều 24, với nội dung như sau: Trong trường hợp vợ, chồng kinh doanh chung thì vợ, chồng trực tiếp tham gia quan hệ kinh doanh là người đại diện hợp pháp của nhau trong quan hệ kinh doanh đó, trừ trường hợp trước khi tham gia quan hệ kinh doanh, vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc luật này và các luật liên quan có quy định khác. Trong trường hợp vợ, chồng đưa tài sản chung vào kinh doanh thì áp dụng quy định tại Điều 36 của luật này”.

Về đại diện giữa vợ và chồng trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với tài sản chung nhưng chỉ ghi tên vợ hoặc chồng - Điều 25 và đây cũng là điều luật mới. Theo đó, điều này có quy định như sau: Việc đại diện giữa vợ và chồng trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng được thực hiện theo quy định tại Điều 24 và Điều 25 của luật này. Trong trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch với người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng của luật này thì giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật mà người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi”.

* Nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng

Về chế độ tài sản của vợ chồng được quy định tại Điều 29 và đây cũng là điều luật mới, với quy định như sau: Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập. Vợ, chồng có nghĩa vụ bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng mà xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, gia đình và của người khác thì phải bồi thường”.

Về quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình - Điều 30 và là điều luật mới. Theo đó, điều này có quy định như sau: Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Trong trường hợp vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên”.

Về giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng - Điều 31 và cũng là điều luật mới. Theo đó, điều này quy định như sau: “Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng phải có sự thỏa thuận của vợ chồng. Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng thì chủ sở hữu có quyền xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản đó nhưng phải bảo đảm chỗ ở cho vợ chồng”.

Về giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, Điều 32 quy định rõ như sau: Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng là người đứng tên tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó. Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng đang chiếm hữu động sản mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó trong trường hợp Bộ luật Dân sự có quy định về việc bảo vệ người thứ ba ngay tình”.

LG

  • Từ khóa
25558

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu