Thứ 6, 19/04/2024 10:07:57 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

Chính trị 08:10, 21/12/2017 GMT+7

Quyền bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý Nhà nước và xã hội của công dân luôn được phát huy

Nguồn QĐND
Thứ 5, 21/12/2017 | 08:10:00 6,167 lượt xem
BPO - Từng được tham gia nhiều kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, tôi nhận thấy, ở nước ta, quyền bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý Nhà nước và xã hội của mọi công dân thực sự được coi trọng, công dân luôn phát huy tốt những quyền đó của mình.

Cá nhân người viết hoàn toàn đồng ý với quan điểm, mục đích của các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp không chỉ nhằm tổ chức tốt nhất cho người dân thực hiện quyền chính trị của mình, mà thông qua bầu cử để tiếp tục phát huy trách nhiệm công dân, phát huy đại đoàn kết toàn dân tộc. Bầu cử không chỉ để tăng dân chủ mà còn để tăng đoàn kết, tăng đồng thuận xã hội… Và cũng thông qua bầu cử, chúng ta hình thành, bầu được những người đủ tầm nhất, đủ đức, đủ tài gánh vác công việc của quốc gia. Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 đã chứng minh điều đó. Tại kỳ bầu cử này (tháng 5-2016), tỷ lệ cử tri đi bầu rất cao (hơn 98,77%) cho thấy người dân ý thức rõ về quyền của mình và cơ quan chức năng các cấp cũng luôn nỗ lực cao nhất để mọi công dân có điều kiện thực hiện các quyền đó của mình.

Nhà nước của chúng ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Bản chất của nhà nước pháp quyền là thượng tôn pháp luật. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, đều sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Hội đồng nhân dân (HĐND) là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. HĐND quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của HĐND.

 Mọi công dân luôn được tạo điều kiện tốt nhất để thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của mình.  Ảnh minh họa.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tính đến ngày bầu cử, đủ mười tám tuổi trở lên và có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật về bầu cử đều có quyền bầu cử.

Quyền bầu cử, ứng cử, quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội của người dân được quy định rõ tại các Điều 27, 28, 29 Hiến pháp 2013. Điều 27 nêu rõ: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, HĐND. Việc thực hiện quyền này do luật định”. Điều 28 quy định: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước” (Khoản 1); đồng thời nêu rõ “Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân” (Khoản 2)… Đồng thời, Hiến pháp quy định công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29), thể hiện tầm quan trọng của quyền biểu quyết nói riêng và quyền của người dân được bày tỏ chính kiến, tham gia đóng góp ý kiến đối với Nhà nước. Các quy định trên của Hiến pháp đã tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc bảo đảm cho công dân được thực sự tham gia quản lý Nhà nước và xã hội.

Ngoài Hiến pháp 2013, quyền bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý Nhà nước và xã hội còn được quy định tại nhiều văn bản luật như Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Thanh tra... và các văn bản khác có liên quan. Đặc biệt, việc Quốc hội thông qua Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân ngày 25-6-2015 đã tạo khung pháp lý quan trọng trong việc bảo đảm quyền bầu cử, ứng cử của công dân. Luật bầu cử quy định rõ việc bầu cử được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Nguyên tắc phổ thông thể hiện tính toàn dân và toàn diện trong bầu cử, bảo đảm để mọi công dân, không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú... đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội và HĐND các cấp. Bình đẳng trong bầu cử là nguyên tắc nhằm bảo đảm cho mọi công dân đều có quyền như nhau khi tham gia bầu cử, ứng cử, không có phân biệt đối xử dưới bất cứ hình thức nào. 

So với Luật bầu cử cũ, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND 2015 mở rộng đối tượng cử tri là người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cấp tỉnh nơi người đó đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Như vậy, theo luật này, chỉ những người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người đang phải chấp hành hình phạt tù và người mất năng lực hành vi dân sự thì mới không được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND.

Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND 2015 cũng có những quy định cụ thể về dự kiến phân bổ đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, đơn vị bầu cử, khu vực bỏ phiếu, Hội đồng bầu cử quốc gia và các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương, danh sách cử tri, việc ứng cử và hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, cũng như các quy định về tuyên truyền, vận động tranh cử, nguyên tắc và trình tự bỏ phiếu, kết quả bỏ phiếu… Những quy định này đã hoàn thiện chế định bầu cử, bảo đảm cho công dân thực hiện quyền làm chủ của mình.

Nghĩa vụ bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của người dân là yêu cầu và nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, được thể hiện rõ trong đường lối, chủ trương của Nhà nước Việt Nam. Phát huy quyền làm chủ của người dân ở cấp địa phương – nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước - được coi là mục tiêu và động lực bảo đảm thắng lợi của công cuộc Đổi mới tại Việt Nam.

Nhà nước Việt Nam chủ trương tăng cường các hình thức dân chủ trực tiếp, nhất là cấp cơ sở. Điều đó có ý nghĩa quan trọng đối với công tác quản lý, điều hành ở địa phương, nơi mà cộng đồng dân cư Việt Nam vốn có truyền thống làng xã, các mối quan hệ xã hội vốn luôn được điều chỉnh trên cơ sở tự nguyện, tự quản. Quy chế Dân chủ ở cơ sở do Nhà nước ban hành năm 1998 đã tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân tham gia tích cực vào tiến trình xây dựng, hoạch định và giám sát việc thực hiện chính sách của Nhà nước, được nhân dân đồng tình, hưởng ứng. Nhờ đó, người dân tham gia rộng rãi và mạnh mẽ vào quản lý nhà nước và xã hội, tích cực hơn trong việc nắm bắt thông tin (dân biết), tham gia thảo luận (dân bàn), triển khai (dân làm), kiểm tra, giám sát (dân kiểm tra) các chủ trương, chính sách, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

Nhà nước Việt Nam cũng chủ trương mở rộng hình thức dân chủ trực tiếp, tạo thêm không gian mới cho sự tham gia của người dân, đặc biệt thông qua các phương tiện truyền thông như: đối thoại giữa chính quyền địa phương với người dân thông qua gặp gỡ trực tiếp hoặc trực tuyến; tổ chức các buổi họp báo; tổ chức các cuộc khảo sát sự hài lòng của công dân đối với các dịch vụ hành chính công thông qua phiếu khảo sát ý kiến người dân, phần mềm lấy ý kiến người dân; tổ chức lấy ý kiến nhân dân đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật... Việc thực hiện dân chủ trực tiếp tại cơ sở còn được thể hiện qua việc người dân tham gia giám sát công tác giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân; đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà nước thông qua việc xác định tính phù hợp của các mục tiêu, chủ trương, chính sách, tính khả thi và mức độ đáp ứng yêu cầu thực tiễn của các giải pháp..., qua đó tạo ra sự đồng thuận trong xã hội, cũng như cơ sở vững chắc cho việc tổ chức thực hiện đường lối chính sách và pháp luật của Nhà nước tại địa phương.

Đặc biệt, ngày 25-11-2015, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Trưng cầu ý dân, gồm 8 chương, 52 điều, quy định cụ thể phạm vi, nguyên tắc trưng cầu ý dân; quyền hạn và nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức trong trưng cầu ý dân, trình tự, thủ tục quyết định việc trưng cầu ý dân; kết quả và hiệu lực của kết quả trưng cầu ý dân. Việc thông qua Luật Trưng cầu ý dân chính là nhằm bảo đảm nhân dân được trực tiếp thể hiện ý chí của mình trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội.

Đối với mỗi người Việt Nam, việc được đi bầu cử và thực hiện quyền bầu cử của mình là vinh dự, đồng thời cũng là trách nhiệm với đất nước. Nhà nước ta luôn tôn trọng và tạo những điều kiện thuận lợi nhất để mọi công dân thực hiện tốt nhất quyền bầu cử, ứng cử, quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội.

  • Từ khóa
2718

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu