Thứ 6, 26/04/2024 03:05:43 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 14:52, 13/04/2019 GMT+7

Sĩ phu yêu nước

Thứ 7, 13/04/2019 | 14:52:00 1,899 lượt xem

BP - Nhữ Bá Sĩ có tên chữ là Nguyên Lập, hiệu là Đạm Trai, người làng Cát (Kẻ Cát), xã Cát Xuyên, tổng Dương Sơn (nay là xã Hoằng Cát, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Ông sinh tháng 2 năm Mậu Thân (1788) và mất ngày 14-9 năm Đinh Mão (1867), thọ 80 tuổi. Chính gốc họ Nhữ là ở làng Hoạch Trạch, tỉnh Hải Dương, về sau rời vào Thanh Hóa đến Nhữ Bá Sĩ là 13 đời. Tới đời thứ 7 là Nhữ Văn Vịnh, làm quan võ thời Lê, được phong là Đặng võ hầu. Các đời sau không đỗ đạt gì, gia đình chuyên làm ruộng.

Mãi đến cụ thân sinh Nhữ Bá Sĩ mới lưu tâm cho con cháu ăn học được nhiều người đỗ đạt. Nhữ Bá Sĩ đi học từ nhỏ, năm 11 tuổi vào trường tư ông Hương cống Đặng Văn Chinh, làng Mạo An, cùng huyện. Năm 19 tuổi, theo tập bài ở trường tỉnh với ông Đốc học Phan Bảo Định (người cùng quê với danh nhân Nguyễn Thiếp). Năm 1821, thi đỗ hương cống và liền năm sau ông dự thi hội rồi trúng tam trường, được bổ làm Tri huyện, rồi Hình bộ viên ngoại.

Sau khi thi đỗ, ban đầu ông được giữ chân hành tẩu bộ Công, rồi ra hậu bổ Bắc thành làm Tri huyện Tiên Lữ, sau lại về Huế trải các chức Chủ sự bộ Hình viên ngoại lang, Lang trung... Năm 1830, sau khi đi thanh tra thuế đường ở Quảng Nam, vì một chuyện vu cáo, ông bị cách chức kết án xử tử giam hậu. Sau 3 năm sống trong lao ngục, ông được tha, nhưng phải đi hiệu lực (đi phục dịch để lấy công chuộc tội) trong phái đoàn của Lý Văn Phức sang Lữ Tống (thuộc Philippines) và Quảng Đông (Trung Quốc).

Khi về nước, ông được khai phục hàm cửu phẩm, làm việc ở Viện đô sát, sau ra làm Huấn đạo huyện An Lão (1834), rồi giữ chức Giáo thụ huyện Hoài Đức (1836) và sau cùng giữ chức quyền Tri phủ Ứng Hòa (1838). Ngót 20 năm nổi chìm trong bể hoạn, ông thấy rõ thế tình mới quyết tâm cáo bệnh về mở trường tư dạy học, viết sách suốt 16 năm.

Biết Nhữ Bá Sĩ là người có tài đức, triều đình nhà Nguyễn muốn trọng dụng lại nên đã 3 lần vời ông làm quan nhưng ông vẫn từ chối. Năm 1853, bị thúc ép mãi, ông phải ra nhận chức Đốc học ở ngay tỉnh nhà, nhưng chỉ 2 năm lại cáo bệnh về với làng xóm, trường học cũ của mình. Đến 5 năm, Nhữ Bá Sĩ ra nhận chức Hàn Lâm trước tác, rồi Đốc học Thanh Hóa. Ở đây, ông phụng chỉ làm sách “Thanh Hóa tỉnh chí”. Khi sách làm xong, ông lại xin về hưu, tiếp tục dạy học.

Tuy dứt khoát với quan trường, ông vẫn rất quan tâm đến việc nước. Lúc này giặc Pháp đã bắt đầu xâm lược nước ta, triều đình Huế đang suy tính về chính sách đối ngoại, thì liên tục mấy năm ông dâng lên Tự Đức nhiều bài sớ chủ chiến. Năm 1860, là tờ sớ Tây bất khả hòa (không thể giảng hòa với Tây được); năm 1864, là bài sớ nổi tiếng Tĩnh dương tam sách (3 sách lược đánh giặc Tây dương) dài đến mấy vạn chữ. Ông còn dâng sớ chống việc xây dựng nhà thờ đạo Gia Tô ở Thanh Hóa. Năm 1865, lão 78 tuổi Như Bá Sĩ còn nằm võng theo đường trạm dịch vào Nghệ An để cùng một số quan lại có tinh thần kháng Pháp mưu toan mộ dân quân kéo vào Nam kỳ tiếp chiến. Việc chưa thành thì ông mất.

Nhữ Bá Sĩ là nhà văn, một thầy giáo đạo cao đức trọng. Nhà ông ở là một thư viện lớn, luôn có người ghi chép, bảo quản. Ông thu góp được nhiều sách tìm mua khắp trong, ngoài nước. Trường học của ông đặt trên bến sông Nghi, con sông quê hương ông lấy tên là Nghi Am, hàm ý có liên hệ với câu chuyện Tăng Điểm, tỏ chí mình với Khổng Tử (Luận ngữ). Học trò của ông nhiều người đỗ cao. Có người tuân theo ý chí bảo vệ Tổ quốc của ông, đứng ra lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp, như Phạm Bành. Trong hàng ngũ nghĩa sĩ Ba Đình sau này, cũng có con trai ông là Nhữ Tham Hối, cháu nội ông là Nhữ Kiểu. Các cháu khác như Nhữ Tri Mại, Nhữ Trí Viễn... đều là những nhà nho hăng hái trong cuộc vận động Duy Tân ở Thanh Hóa đầu thế kỷ XX.

Lời bàn:

Tuy con đường thi cử, quan chức của Nhữ Bá Sĩ lận đận, nhưng ông đã lập nghiệp bằng cách sử dụng kiến thức uyên bác của mình để dạy học và sáng tác, đào tạo cho xã hội một số người tài và đóng góp vào kho tàng văn học Việt Nam những tác phẩm giá trị. Các bài văn, thơ của Nhữ Bá Sĩ đều toát lên lòng yêu xứ sở, đất nước, ý thức tự hào về truyền thống quê hương, dân tộc và cả nỗi niềm trăn trở của tác giả trước nạn xâm lược của phương Tây. Trong Từ điển văn học Việt Nam (bộ mới), tiến sĩ Phạm Tú Châu đã viết về ông như sau: Nhữ Bá Sĩ học rộng biết nhiều, có hoài bão lớn, có tinh thần dân tộc cao... Với số lượng tác phẩm có nhiều đóng góp về nội dung và thể loại, ông xứng đáng được coi là một nhà văn, nhà thơ có tầm cỡ của dân tộc ở thế kỷ XX.

Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, có một số nhà Nho là quan lại của triều Nguyễn phẫn uất trước cảnh nước mất, nhà tan đã tuẫn tiết hoặc về quê ở ẩn. Số khác mộ quân khởi nghĩa dứt khoát đứng về phía nhân dân chiến đấu giành lại độc lập cho dân tộc. Trong số những người có tư tưởng dứt khoát chống Pháp là Nhữ Bá Sĩ. Mặc dù chưa kịp cống hiến cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc, song với tinh thần quyết chiến của ông đã truyền lại cho thế hệ sau ý chí quyết tâm đứng lên đấu tranh chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp.

N.D

  • Từ khóa
110171

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu