Thứ 5, 25/04/2024 18:32:13 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

Pháp luật 16:32, 26/11/2018 GMT+7

“Thừa kế theo di chúc” và “Thừa kế theo pháp luật”

Thứ 2, 26/11/2018 | 16:32:00 195 lượt xem
BPO - Theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015, thừa kế là việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống, tài sản để lại được gọi là di sản. Và cũng theo quy định của pháp luật hiện hành, có 2 trường hợp thừa kế đó là: Thừa kế theo pháp luật; Thừa kế theo di chúc. Vậy, việc thừa kế trong mỗi trường hợp trên này có gì giống và khác nhau? Và bài viết dưới đây sẽ cùng bạn đọc tìm hiểu về sự khác biệt đó:

Về khái niệm, việc thừa kế theo di chúc là sự thể hiện ý chí, nguyện vọng của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Còn thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.

Về trường hợp áp dụng, đối với thừa kế theo di chúc được áp dụng đối với cá nhân trước khi mất có lập di chúc hợp pháp kể từ thời điểm mở thừa kế (Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại Khoản 2, Điều 71 của bộ luật này). Theo đó, sẽ áp dụng theo ý chí, nguyện vọng của người lập di chúc.

Đối với thừa kế theo pháp luật thì được áp dụng trong trường hợp sau đây: Không có di chúc; Di chúc không hợp pháp; Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế; Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Phần di sản không được định đoạt trong di chúc; Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật; Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Về người lập di chúc, đối với trường hợp thừa kế theo di chúc thì, người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 630 của Bộ luật Dân sự 2015 có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình (Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép). Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc. Còn đối với thừa kế theo pháp luật thì pháp luật quy định về các vấn đề liên quan đến thừa kế (người thừa kế theo pháp luật, cách chia thừa kế,…) khi người chết không để lại di chúc hoặc những trường hợp khác mà di chúc không thể được tiến hành.

Về người thừa kế, đối với thừa kế theo di chúc thì bất kỳ chủ thể nào mà người lập di chúc có ý nguyện để định đoạt di sản của mình cho chủ thể đó. (Trừ trường hợp thuộc những người không được quyền hưởng di sản được quy định tại Điều 621 Bộ luật Dân sự (Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;…..). Tuy nhiên, trong trường hợp nếu cha, mẹ, vợ, chồng, con chưa thành niên; con đã thành niên mà không có khả năng lao động nếu không có tên trong di chúc thì vẫn được hưởng một phần di sản tối thiểu bằng 2/3 một suất thừa kế.

Còn đối với thừa kế theo pháp luật, thì chỉ có những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: Hàng thừa kế thứ nhất gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Về hình thức thừa kế, đối với thừa kế theo di chúc thì di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Còn đối với thừa kế theo pháp luật thì văn bản thỏa thuận phân chia di sản giữa các đồng thừa kế theo quy định. Trường hợp không thống nhất thỏa thuận mà xảy ra tranh chấp sẽ thực hiện theo bản án hay quyết định của tòa án.

Về thừa kế thế vị, trong trường hợp thừa kế theo di chúc không quy định. Còn đối với thừa kế theo pháp luật thì, trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.

Về cách phân chia di sản, đối với thừa kế theo di chúc thì, việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật thì người thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia di sản; nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trường hợp di chúc chỉ xác định phân chia di sản theo tỷ lệ đối với tổng giá trị khối di sản thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản đang còn vào thời điểm phân chia di sản.

Đối với thừa kế theo pháp luật thì, những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng. Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia.

Đối với trách nhiệm của người nhận thừa kế, về nguyên tắc chung thì trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Tuy nhiên, đối với thừa kế theo di chúc có một trường hợp ngoại lệ, đó là đối với trường hợp di tặng thì: Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này.

T. Nghĩa (Hội luật gia tỉnh)

  • Từ khóa
31473

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu