Thứ 7, 20/04/2024 01:48:38 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 15:32, 12/08/2017 GMT+7

Thượng đẳng thần

Thứ 7, 12/08/2017 | 15:32:00 5,613 lượt xem

BP - Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, Bùi Tá Hán (1496- 1568) là người Hoan Châu, nay là huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông là một trong những vị tướng có công với triều hậu Lê. Khi Mạc Đăng Dung phế truất vị vua cuối cùng của thời Lê sơ là Lê Cung Hoàng, lập ra nhà Mạc (tháng 6-1527), Bùi Tá Hán trung thành với nhà hậu Lê, theo ngọn cờ “phù Lê diệt Mạc” của Nguyễn Kim, lập được nhiều công tích. Sau khi nhà hậu Lê được khôi phục, năm 1545, dưới triều vua Lê Trang Tông, Bùi Tá Hán được phong làm Bắc quân đô đốc Phủ chưởng phủ sự, được cử vào trấn nhậm ở Thừa tuyên Quảng Nam - vùng đất kéo dài từ Nam Thuận Hóa đến núi Thạch Bi (từ phía Nam huyện Điện Bàn đến Đèo Cả ngày nay).

Minh họa: S.H

Ông có công lớn với vùng đất Quảng Ngãi, là thủy tổ của tộc Bùi ở đây, nên Quốc sử quán triều Nguyễn xem ông là danh nhân tỉnh Quảng Ngãi và ca ngợi sự nghiệp cai quản “chú trọng ban ơn huệ, khoan hòa với quân dân, trăm họ yêu mến”. Sơn phòng Tiễu phủ sứ Nguyễn Tấn (triều vua Tự Đức), khi viết tập sách nổi tiếng “Phủ Man tạp lục” (chép các tên làng, tên núi, tên sông miền thượng du Quảng Ngãi như sách dư địa chí), đã đặt Bùi Tá Hán ở vị trí đầu tiên trong số những nhân vật góp công lớn vào sự nghiệp kinh dinh vùng đất phía tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định.

Sách “Phủ Man tạp lục” có đoạn chép: Bấy giờ ông Bùi Tá Hán đối xử với người Thượng như đối với người Kinh, nên người Kinh, người Thượng đều được yên ổn làm ăn sinh sống, không xảy ra việc xâm biên gây rối nhau. Khi ông qua đời (1568), được nhân dân Kinh, Thượng lập đền thờ, chăm lo hương khói cho đến tận ngày nay. Trong thời kỳ trấn nhậm tại Thừa tuyên Quảng Nam, ông cùng với người con trai trưởng là Bùi Tá Thế đã có công đưa dân miền Bắc vào khai hoang lập ấp, xây dựng xóm làng. Ông đã dẹp yên tình trạng trộm cướp, giữ vững trật tự xã hội. Lúc này, ở các huyện miền Tây Quảng Ngãi và Quảng Nam thường bị giặc Đá Vách của nhóm người dân tộc thiểu số ở các huyện miền Tây Quảng Ngãi và quân Chiêm Thành xâm chiếm đánh phá. Bùi Tá Hán đã lãnh đạo nhân dân và quân sĩ chiến đấu bảo vệ lãnh thổ đất nước. Chính ông đã đốc thúc quân dân xây đắp thành lũy cao 2m, chạy dài từ huyện Tư Nghĩa đến huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi để chống giặc Đá Vách.

Về sau, do khinh địch, ông bị quân Chiêm Thành phục kích bắt giết vào năm 1568, tại khu rừng Cầy, làng Thu Phổ thuộc huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi (nay là xã Quảng Phú, thành phố Quảng Ngãi). Sau khi ông mất, triều đình nhà Lê phong tặng Thái bảo; đến năm Minh Mạng mười ba (1832), được gia phong là Khuông quốc tịnh biên Thọ phúc Thượng đẳng thần. Xuất phát từ lòng kính phục, nỗi tiếc thương một danh tướng có công với đất nước, quê hương, người dân Quảng Ngãi đã thêu dệt nên huyền thoại về cái chết của ông như sau: Ông đã hiển thánh, người và ngựa đi đâu không ai biết, chỉ còn lưu lại chiếc áo bào y vấy máu tại khu rừng Cầy, làng Thu Phổ.

Ông được nhân dân lập đền thờ và lăng mộ ngay tại nơi ông mất, đổi tên rừng Cầy là rừng Lăng để tỏ lòng tôn kính. Trong đền có bức tượng thờ ông và người hầu mặc áo đỏ (thường gọi là Xích Y thị, một bộ tướng của ông) với nhiều sắc phong của các triều Tây Sơn và triều Nguyễn, nhiều thơ, liễn đối phúng điếu của các quan lại và các bậc túc nho trong tỉnh. Về tượng Xích Y thị, dựa vào trang phục và vóc dáng, các nhà nghiên cứu cho rằng đó là một người thiểu số. Đời vua Tự Đức, các quan địa phương có dựng bia bên mộ ông, khắc mấy chữ: Cố Lê đô đốc Trấn Quốc Công chi mộ. Di tích mộ và đền thờ Bùi Tá Hán được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.

Lời bàn:

Theo sử cũ, Bùi Tá Hán là một danh tướng có công khôi phục nhà hậu Lê, đồng thời là vị tổng chỉ huy đã thu phục cả vùng đất xứ Quảng (gồm Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định) từ tay nhà Mạc về cho nhà Lê, mà quân sĩ cả hai phía tham chiến gần như không một người nào thiệt mạng. Sau khi được giao trấn giữ vùng đất này, ông đã thực hiện nhiều chính sách an dân và phát triển kinh tế - xã hội. Bùi Tá Hán đã quan tâm cho xây dựng chùa chiền để nhân dân cúng lễ, nhưng ông lại chủ trương hạn chế việc ăn uống kéo dài gây lãng phí trong đám cưới, đám tang... Bùi Tá Hán còn khuyên nhà quan cũng như nhà dân, bất luận giàu nghèo đều phải “ăn độn”: Mỗi khi nấu cơm nên ghế thêm hai mươi phần trăm khoai lang hoặc bắp.

Với danh xưng “Trấn quốc công”, “Thượng đẳng thần”, mà người đương thời tôn vinh Bùi Tá Hán đã nói lên sự ghi nhận không chỉ của triều đình, mà chính là sự ngưỡng mộ, yêu quý của nhân dân xứ Quảng và cả dải đất miền Nam Trung bộ dành cho ông. Vì thế, dù ít được sử sách chính thống nhắc tới, nhưng Trấn quốc công Bùi Tá Hán đã thực sự sống trong lòng cộng đồng các dân tộc Nam Trung bộ không phân biệt người Việt hay người Chăm, người Kinh hay người Thượng suốt 5 thế kỷ nay. Chính những chủ trương đúng đắn trong công tác dân tộc mà khi Bùi Tá Hán mất, đồng bào các dân tộc ít người ở vùng đất xứ Quảng đã tôn vinh ông như một vị thần quan trọng nhất trong đời sống tín ngưỡng của họ. Đồng thời  thường xuyên tế lễ ông và xếp ông vào hàng thứ ba trong 4 vị thần linh: Thần Nông, Hậu Tắc, Trấn Bắc, Xứ Xang - Trấn Bắc tức là Bùi Tá Hán. Cuộc đời và sự nghiệp của một con người mà được như vậy thì hỏi còn có gì hơn? Mong rằng hậu thế hãy soi mình vào gương của người xưa để biết mình là ai!

N.D

  • Từ khóa
109946

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu