Thứ 7, 20/04/2024 20:35:14 GMT+7
Bình Phước, 30°C/27°C - 33°C
aA

ÔN CỐ TRI TÂN 15:50, 01/11/2018 GMT+7

Vụ án phạm thượng

Thứ 5, 01/11/2018 | 15:50:00 218 lượt xem

BP - Minh Mạng hay Minh Mệnh, là vị hoàng đế thứ hai của vương triều phong kiến cuối cùng ở nước ta. Ông trị vì từ năm 1820 đến khi qua đời. Trong 21 năm trị nước, Minh Mạng ban bố hàng loạt cải cách về nội trị. Ông đổi tên nước Việt Nam thành Đại Nam, lập thêm Nội các và Cơ mật viện ở Huế, bãi bỏ chức tổng trấn Bắc thành và Gia Định thành, đổi trấn thành tỉnh. Về đối ngoại, Minh Mạng tiếp tục duy trì chính sách cấm người dân buôn bán với ngoại quốc, khiến Đại Nam không tiếp thu được các thành tựu mới về khoa học.

Thời Minh Mạng cũng liên tục xảy ra nội loạn và chiến tranh. Trong nước liên tiếp xảy ra các cuộc nổi dậy của nông dân. Triều đình phải rất vất vả mới dẹp được. Đối với các nước láng giềng, Minh Mạng sử dụng vũ lực nhiều lần: lập các phủ Trấn Ninh, Lạc Biên, Trấn Định, Trấn Man nhằm khống chế Ai Lao; đánh bại Xiêm La; bảo hộ Chân Lạp, chiếm vùng Nam Vang (Phnôm Pênh ngày nay). Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh đó đã làm hao mòn quốc khố nên nhà Nguyễn không giữ được các lãnh thổ mới đánh chiếm.

Minh họa: S.H

Theo sách “Đại Nam thực lục”, vào năm Minh Mạng thứ 21 (1840), do trời mưa lâu không ngớt, Vương Hữu Quang khi đó là Tuần phủ Nam Ngãi (2 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi) được vua Minh Mạng sai cầu tạnh tại miếu Đô thành hoàng. Cầu suốt 1 ngày mà trời không dứt mưa, Vương Hữu Quang ra mật tấu cho rằng nguyên nhân vì vua đụng chạm đến thần linh khi đùa cợt với quần thần trên điện Văn Minh và cho diễn vở Quần tiên hiến thọ (do Nguyễn Bá Nghị soạn dưới sự chỉ bảo của nhà vua) tại Duyệt Thị đường. Vì thế nên xin đốt sách ấy đi để tạ trời đất thần minh.

Biết việc này, vua Minh Mạng đùng đùng nổi giận đòi trị tội Vương Hữu Quang vì: “Dám nói bậy bạ rằng trẫm có tội với trời đất thần minh, sao điêu toa dối bậy quá thế”. Về việc này, sách “Đại Nam thực lục” có đoạn chép: Đình thần cùng bọn đốc, phủ, bố, án đến kinh cùng nhau một lời xin cách chức trị tội Vương Hữu Quang. Trong các lời bàn dâng lên, có người nói xử tội chém, có người đề nghị xử tội lưu đày. Duy chỉ Tham tri là Nguyễn Công Trứ và các quan đại thần khác là Doãn Uẩn, Thị lang Phan Thanh Giản, Bùi Quỹ dâng sớ xin xử nhẹ bằng việc giáng 2 cấp lưu.

Cũng chỉ vì sự việc này mà Nguyễn Công Trứ cùng các quan đại thần trong triều khi đó là Doãn Uẩn, Phan Thanh Giản, Bùi Quỹ bị vua hạch tội, khiến họ phải nhận “ngu tối, kiến thức thấp kém” chứ không phải vì “cứu viện” cho Vương Hữu Quang. Vua Minh Mạng ra chiếu dụ rằng: “Vương Hữu Quang làm lễ cầu tạnh không được lại muốn đổ cho người trên. Lại thấy ngày ấy trẫm hơi se mình, dám nói bậy bạ cho là trẫm có tội với trời đất thần minh, sao điêu toa dối bậy quá thế. Vả lại, truyện “Quần tiên hiến thọ” là thuộc viện Nội các bọn Nguyễn Bá Nghị soạn ra, dẫu trong ấy trẫm có chỉ bảo một vài câu, nhưng là lời thần bếp, thầy kiện răn bảo. Ta có điều gì đùa cợt thần minh đâu, huống hồ dám động đến trời đất ư?... Hữu Quang nói ra câu ấy làm cho mọi người tức giận... mà có ý kiến lại bàn xử nhẹ. Ở trên triều đình không thể nói đến chữ “tư” được. Bọn ngươi nếu có thực trạng liên kết bè lũ, trẫm quyết giữ phép nghiêm trị... Hay là bọn ngươi ghét Hữu Quang mà giả dối nói ra như thế, để thỏa nỗi lòng giận của ta, giết ngay Hữu Quang? Bọn ngươi là người thế nào, dám lấy việc thưởng phạt của Nhà nước để làm kế báo ân báo oán cho tư gia ư?

Theo lệnh của vua, Vương Hữu Quang bị cách chức, giam lại. Phan Thanh Giản bị phạt giáng một cấp, đổi đi nơi khác. Nguyễn Công Trứ, Doãn Uẩn, Bùi Quỹ được xác định chỉ có vai trò phụ họ nên bị giáng một cấp lưu, không cho lấy công khác khấu trừ. Nhưng sau đó, vua lại thay đổi hoàn toàn thái độ, bất ngờ xuống tờ dụ rằng: Tội của Vương Hữu Quang trăm miệng cũng không cãi được, các quan trong ngoài hội bàn khép tội xử tử, khép tội lưu đày thực không quá đáng. Ta nghĩ vì một lời nói lầm lỗi mà xử bề tôi tội nặng thì không nỡ. Sau đó, nhà vua đã gia ơn xuống chiếu giáng Vương Hữu Quang xuống làm Tư vụ bộ Công, thoát tội chết. Vương Hữu Quang làm quan trong triều Nguyễn dưới 3 đời vua là Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Ông sinh ra tại thôn Tân Đức, huyện Tân Long, phủ Tân Bình, trấn Phiên An (nay là quận 5, thành phố Hồ Chí Minh). Tiên tổ ông là người gốc Phúc Kiến, chuyên nghề buôn bán.

Lời bàn:

Bàn về Vương Hữu Quang và vụ án “Quần tiên hiến thọ”, nhà nghiên cứu văn hóa, nghiên cứu hát bội nổi tiếng Vũ Ngọc Liễn gọi đây là “vụ án kỳ quặc trong lịch sử sân khấu hát bội”. Bởi nhìn lại lịch sử nghệ thuật Đông Tây kim cổ, chúng ta thường thấy tác giả bị quy tội nếu tác phẩm không làm đẹp lòng kẻ thống trị ở thời điểm đó, chứ không có chuyện kết tội người phê bình.

Nhà sử học Lê Văn Lan coi việc Vương Hữu Quang can ngăn vua Minh Mạng quá mải mê xem tuồng mà lãng phí thời gian chăm lo việc chính sự là một trong những ví dụ điển hình chứng tỏ phẩm chất thẳng thắn, bộc trực. Ông cho rằng phẩm chất “ngạnh”, “trực” của cụ Vương Hữu Quang khi dám can ngăn và phê phán một vị vua chuyên chế như Minh Mạng thì có thể sánh được với vị “Vạn Thế Sư Biểu” Chu Văn An khi dâng Thất trảm sớ đòi chém đầu 7 kẻ gian thần thời Trần. “Ngạnh”, “trực” cũng là tính cách đặc biệt tạo nên số phận thăng giáng liên miên trong quan trường của Vương Hữu Quang.                                   

N.D

  • Từ khóa
110111

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Đang tải dữ liệu